TỔ CHỨC PHỐI HỢP, HIỆP ĐỒNG GIỮA CÁC LỰC LƯỢNG TRONG GIẢI PHÓNG TIẾP QUẢN THỦ ĐÔ HÀ NỘI, NÉT ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Cuộc Tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng đã buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.
Theo Hiệp định, Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc nước ta, song Hà Nội còn nằm trong vùng tập kết 80 ngày, Hải Dương nằm trong vùng tập kết 100 ngày, Hải Phòng, Kiến An, Hồng Quảng cùng 2 huyện Kim Môn, Kim Thành thuộc Hải Dương nằm trong vùng tập kết 300 ngày của quân đội Pháp.
Lợi dụng thời gian còn ở Hà Nội, thực dân Pháp ráo riết tổ chức phá hoại ta về mọi mặt. Song, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Tổng Quân ủy và Thành ủy Hà Nội, quân dân Thủ đô Hà Nội đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bộ đội chủ lực, kiên cường, mưu trí đấu tranh làm thất bại âm mưu hoạt động phá hoại của địch.
Ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội rợp cờ hoa, năm cửa ô tưng bừng đón mừng những đoàn quân hùng dũng tiến vào giải phóng, tiếp quản Thủ đô Hà Nội hầu như còn nguyên vẹn. Đó là cách kết thúc một cuộc chiến tranh rất đặc biệt, rất độc đáo, rất “Việt Nam”. Đồng thời, vừa là kết quả, vừa là sự thể hiện sinh động truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Thắng lợi đó góp phần tô đậm, làm phong phú và nâng nghệ thuật quân sự đặc sắc “quyết chiến, quyết thắng, biết đánh, biết thắng” của dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới
Nói đến chiến tranh là nói sự tàn phá, hủy diệt, nên giữ được nguyên vẹn một thành phố lớn sau chiến tranh đối với một quốc gia bị đánh chiếm là hết sức khó khăn. Do đó, việc giữ nguyên vẹn Thủ đô Hà Nội, sau cuộc chiến tranh tàn khốc, kéo dài suốt 9 năm là một kỳ tích của quân dân Việt Nam và trở thành một sự kiện đặc biệt, hiếm có trong lịch sử chiến tranh thế giới. Sự kiện đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu, là sự phát triển biện chứng của cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ” của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là bằng chứng sinh động về sức mạnh của văn hóa Việt Nam, văn hóa “1000 năm Thăng Long-Hà Nội”, bằng chứng về sự toàn thắng của trí tuệ, của ý chí nghị lực, tinh thần Việt Nam trước sự hung bạo của thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, phản cách mạng và trước sức mạnh của vũ khí kỹ thuật hiện đại.
Cả dân tộc Việt Nam bước vào cuộc chiến tranh không cân sức với ý chí quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, với niềm tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa và sức mạnh của thế trận lòng dân, thế trận chiến tranh nhân dân. Theo đúng quy luật của chiến tranh: Chiến thắng thuộc về chính nghĩa. Trong cuộc chiến tranh ấy ta từng bước giành thế chủ động, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Địch từng bước lún sâu vào thế bị động, càng đánh càng thua. Đặc biệt khi thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức, triển khai thực hiện Kế hoạch Na-va, cố gắng cuối cùng của chúng trong chiến tranh Đông Dương, với mưu đồ tập trung xây dựng các binh đoàn cơ động mạnh và tổ chức tiến công tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta, bình định Đông Dương trong vòng 18 tháng.
Để đập tan Kế hoạch Na-va, ta đã chủ động mở cuộc Tổng tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954. Với năm đòn tiến công chiến lược buộc Pháp rải quân ra khắp chiến trường Đông Dương, trong đó Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung quân lớn nhất, tạo cơ hội cho ta tổ chức chiến dịch tiêu diệt lớn sinh lực địch, đi đến kết thúc chiến tranh. Như vậy, lực lượng địch trong các thành phố và ở Hà Nội sẽ suy giảm, do đó, khi phải chấm dứt chiến tranh, dù có mưu đồ phá hoại thành phố Hà Nội, song chúng cũng khó có thể thực hiện được.
Mặt khác, với vị trí là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội của đất nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ việc giải phóng, tiếp quản Thủ đô Hà Nội là nhiệm vụ mang tầm vóc chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với cả 300 ngày chuyển quân tập kết, tác động sâu sắc tới sự phát triển tình hình về sau và ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của ta trên trường quốc tế.
Bác Hồ quan tâm chỉ đạo trực tiếp việc tiếp quản Thủ đô. Ngày 19 tháng 9 năm 1954, tại Đền Hùng (Phú Thọ), nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 trên đường tiến về tiếp quản Thủ đô, Bác căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.... Tám chín năm nay do quân dân ta kiên quyết kháng chiến nên mới có thắng lợi trở về Hà Nội, vì thế các chú được Trung ương Đảng và Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, là nhận được một vinh dự rất lớn...”.
Với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 350, Bác nhắc nhiều về việc chống “viên đạn bọc đường” khi vào giải phóng Thủ đô. Bác còn trực tiếp viết tài liệu giáo dục “Mấy lời dặn các đơn vị bộ đội vào thành”, Người dạy “Suốt tám năm kháng chiến, các chú đã làm kiểu mẫu anh dũng, do đó mà chúng ta đã thắng lợi. Nay chúng ta về thành thị, các chú phải làm kiểu mẫu đúng đắn để tranh lấy thắng lợi trong hoà bình[1].
Để chuẩn bị cho công tác tiếp quản, từ ngày 3 tháng 7 năm 1954, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về “Bảo hộ các thành phố mới được giải phóng” định rõ phương châm, chính sách và chế độ quân quản đối với những nơi này, đồng thời ban hành 8 chính sách đối với những thành phố mới giải phóng và 10 điều kỷ luật của bộ đội, nhân viên công tác khi vào tiếp quản.
Ngày 6 tháng 9 năm 1954, Trung ương Đảng ra nghị quyết thành lập Đảng ủy tiếp quản Thủ đô[2], đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, làm Bí thư Thành ủy Hà Nội và trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy tiếp quản. Đảng ủy tiếp quản chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn bộ các mặt quân sự, hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội và trật tự an ninh trong thành phố. Trong đó, đồng chí Vương Thừa Vũ phụ trách về quân sự. Tiếp đó, ngày 17 tháng 9 năm 1954, Chính phủ ra quyết định thành lập Ủy ban quân chính Hà Nội. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm Chủ tịch, bác sĩ Trần Duy Hưng, Phó chủ tịch.
Trong hai ngày 17 và 18 tháng 9 năm 1954, Hội đồng Chính phủ đã họp nghe đồng chí Trần Duy Hưng thay mặt Ủy ban quân chính thành phố báo cáo về kế hoạch tiếp quản Thủ đô.
Trung ương cũng điều động về Hà Nội hàng trăm cán bộ lấy từ các lớp học tiếp quản của Trung ương ở Việt Bắc và của Liên khu 3 để xây dựng bộ máy tiếp quản Thủ đô. Cùng với cán bộ của Hà Nội, bộ máy tiếp quản với những đội công tác phụ trách tiếp quản từng khu vực, từng ngành, từng đơn vị được tổ chức từ trên xuống dưới, cả nội và ngoại thành.
Đảng ủy tiếp quản gấp rút mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho 500 cán bộ các ngành trước khi về hoạt động ở Thủ đô. Đồng thời cũng cấp tốc bồi dưỡng đào tạo hàng trăm cán bộ cốt cán từ thành phố đưa ra.
Đến ngày 20 tháng 9 năm 1954, ta đã chuẩn bị xong một đội ngũ cán bộ chính trị và quân sự cùng cán bộ chuyên môn kỹ thuật có đủ khả năng nắm và điều hành các cơ sở công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng, tài chính, giao thông vận tải, nhà ga, sân bay, bến cảng và các cơ quan y tế, giáo dục, thông tin văn hoá ... một khi địch chuyển giao sang tay ta.
Đối với quân dân Hà Nội, tiếp quản Thủ đô không đơn thuần là tiếp nhận - bàn giao mà là thực sự là cuộc đấu trí, đấu lực gay go phức tạp của ta trước sự ngoan cố, hung hãn, tráo trở và trước những âm mưu hành động phá hoại của đạo quân thất trận thực dân. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự phối hợp hiệp động chặt chẽ nhịp nhàng giữa các lực lượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp mới có thể giành thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội đã triển khai nhiều mặt công tác, trong đó chú trọng tập trung chấn chỉnh tổ chức và tăng cường cán bộ cho cơ sở. Trước hết, lựa chọn điều động 30 cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm xây dựng phong trào, am hiểu tình hình địa phương để vào nội thành xây dựng lực lượng tự vệ; thành lập Ban chỉ huy “quân báo thống nhất” để phối hợp điều tra âm mưu thủ đoạn của địch, tìm hiểu các công sở mà địch phải bàn giao cho ta, giúp Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh và Thành ủy đề ra chủ trương giúp các ngành, các lực lượng từng bước bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch tiếp quản.
Ban Cán sự Đảng nội thành cũng đã xác định trách nhiệm về xây dựng lực lượng tự vệ cho các cấp, các ngành, đồng thời tăng cường đảng viên, đoàn viên, quần chúng trung kiên vào lãnh đạo chỉ huy lực lượng tự vệ, phát triển mạnh mẽ lực lượng cách mạng trong thành phố, phối hợp chặt chẽ với lực lượng bên ngoài vào tiếp quản Thủ đô. Một mặt, hướng trọng tâm xây dựng lực lượng tự vệ nhằm vào các nhà máy xí nghiệp quan trọng trực tiếp đảm bảo cho hoạt động của thành phố. Mặt khác, xây dựng nhanh và mạnh phong trào ngoại thành, lấy ngoại thành làm bàn đạp để tiếp quản tốt nội thành.
Về mặt quân sự, để bảo vệ thành phố, đề phòng địch tráo trở, phá hoại và khắc phục những hậu quả mà chúng có thể gây ra, theo nhiệm vụ, kế hoạch được phân công, các đơn vị thuộc Đại đoàn 308 sẽ tiếp quản toàn bộ các khu vực nội thành và thị trấn Gia Lâm, Trung đoàn 57 thuộc Đại đoàn 304 tiếp quản thị xã Hà Đông và những xóm làng phía tây, phía nam thành phố, các Trung đoàn 254 và 53 thuộc Đại đoàn 350 tiếp quản khu vực sân bay Bạch Mai.
Cùng với việc tích cực chuẩn bị lực lượng tiếp quản, cuộc đấu tranh chống địch phá hoại cơ sở hạ tầng, di chuyển máy móc vào Nam, chống cưỡng ép dân di cư vào Nam cũng diễn ra quyết liệt. Ở Nhà máy điện Yên Phụ, tối 8 tháng 10 năm 1954, phát hiện địch tháo dỡ máy, chuyển tài liệu, tự vệ nhà máy đã kiên trì đấu tranh suốt đêm, buộc chúng phải nhượng bộ, để nguyên hiện trạng máy móc, tài liệu chờ ta tiếp quản.
Ở Nhà máy đèn Bờ Hồ, ngày 12 tháng 9 năm 1954, lợi dụng lúc công nhân nghỉ việc, bọn chủ âm mưu đem những máy móc, dụng cụ, thiết bị đi Nam. Hai trăm công nhân và tự vệ đã kéo đến giữ lại, sau đó tổ chức canh gác, không chúng mang đi.
Ngày 9 tháng 10 năm 1954, tự vệ Nhà máy nước đã phát hiện và tháo dỡ kịp thời mìn đặt tại tháp nước Hàng Đậu. Tại Sở bưu điện