Không có hình bóng của các nhà khoa học nữ trong chương trình giáo dục STEM
Nghiên cứu chỉ ra rằng chương trình học STEM tại Australia tập trung phần lớn nội dung vào tiểu sử và cuộc đời của các nhà khoa học nam, trong đó chỉ có 3 bang có đề cập tới nhà khoa học nữ trong phần tổng quan lý thuyết.
TS. Kat Ross (Điểm nghiên cứu tại ĐH Curtin của Trung tâm nghiên cứu thiên văn vô tuyến quốc tế-International Centre for Radio Astronomy Research (ICRAR) cho biết việc thiếu vắng nội dung liên quan tới các nữ khoa học gia trong chương trình đào tạo là rất đáng báo động.
Theo TS. Ross, khoa học là nỗ lực hợp tác của rất nhiều nhà nghiên cứu. Họ làm việc cùng nhau để giải quyết các vấn đề, xây dựng và bổ sung cho các công trình đi trước của các nhóm khác. Thay vì tổ chức chúc mừng cả nhóm, sự vinh danh và các phần thưởng thường chỉ được trao tặng cho một cá nhân duy nhất và thường là nam giới.
Việc tập trung vào một thiên tài nam giới duy nhất là một hiện tượng phổ biến trong chương trình quốc gia tại Úc. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy một nhà khoa học nữ duy nhất trong nội dung của toàn bộ chương trình. Trên thực tế, chúng ta đều biết tỷ lệ tham gia của nữ giới trong giáo dục STEM thấp hơn so với học sinh nam. Chính khoảng cách về giới tính trong những nội dung mà các em được học về các nhà khoa học tại trường cũng góp phần vào sự chênh lệch trong tỷ lệ tham gia này.
Nghiên cứu này được tiến hành với vai trò là một phần trong chiến dịch IncludeHer. Các nhà khoa học đã phân tích chương trình của 4 môn STEM bao gồm sinh học, hóa học, vật lý và khoa học môi trường. Chỉ có Rosalind Franklin (nhà hóa học người Anh) là nữ khoa học gia duy nhất được nhắc tới trong chương trình học tại bang Queensland, Nam Úc và lãnh thổ phía Bắc (Nothern Territory). Tất cả những nhà khoa học còn lại trong chương trình đều là nam giới.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hầu hết nội dung đều tập trung vào các nghiên cứu và phát hiện của các học giả châu Âu. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực tới những học sinh đến từ các cộng động đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ. Ngoài ra, điều này cũng góp phần vào việc làm giảm bớt sự tự tin và cảm giác thuộc về (sense of belonging) của các em.
Theo TS. Ross, để trẻ em có thể phát triển được những cảm xúc tích cực về danh tính (identity) hoặc sự gắn kết, điều quan trong là chúng cần được tiếp cận một cách chính xác và đáng tin cậy với những hình mẫu có liên quan tới giới tính và phông văn hóa của chúng trong suốt cuộc đời.
TS Ross cũng cho rằng những hình mẫu này cần được truyền tải xuyên suốt chương trình học nhằm nuôi dưỡng đam mê và kỹ năng cho những mầm non tương lai của Australia. Hướng tiếp cận hiện nay của Australia đối với giáo dục STEM có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sự tham gia của phụ nữ trẻ tuổi đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường cũng như mơ ước của các em nhằm đạt được các thành tựu xa hơn trong khoa học.
- Professional skills development for University lecturers: A case study in the Mekong Delta region of VietnamNghiên cứu10/06/2025
- Management of primary teacher training programs using the CDIO approach: Theoretical frameworks and practical implementationsNghiên cứu03/06/2025
- Nghiên cứu mối liên quan giữa tật cận thị và một số yếu tố khác với tình trạng lo âu của sinh viên 2 năm đầu đại họcNghiên cứu22/05/2025
- Mối liên quan giữa tình trạng lo âu với tật cận thị và một số yếu tố khác của sinh viên năm cuối đại họcNghiên cứu13/05/2025
- Đổi mới quản lý cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ đại họcNghiên cứu01/05/2025
- Xây dựng và sử dụng khung năng lực trong phát triển đội ngũ giáo viên làm công tác tư vấn học đường ở trường tiểu họcNghiên cứu07/04/2025
- Tổng quan các nghiên cứu phát triển năng lực số cho sinh viên đại học ngành giáo dục tiểu họcNghiên cứu04/04/2025
- Bản đồ cơ thể đầu tiên về ảo giácNghiên cứu01/04/2025
- Thông tin tuyển sinh ngành Tâm lý học giáo dục 2025Tin tức19/06/2025
- Thông tin tuyển sinh ngành Quản lý giáo dục 2025Tin tức18/06/2025
- Công bố kết quả PISA 2022 của Việt NamTin tức17/06/2025
- Luật Nhà giáo đã được thông quaTin tức17/06/2025
- Một bài tập hồi tưởng trước khi đi ngủ có thể cải thiện trí nhớ ở người cao tuổi, bao gồm cả những người mắc và không mắc bệnh AlzheimerTin tức11/06/2025
- Professional skills development for University lecturers: A case study in the Mekong Delta region of VietnamNghiên cứu10/06/2025
- Thế hệ Gen Z trong môi trường công sở: Phá vỡ định kiến từ góc nhìn tâm lý học tổ chứcTin tức05/06/2025
- Top 10 xu hướng tâm lý học cần chú ý trong năm 2025Tin tức04/06/2025