Những rào cản đối với chứng rối loạn ăn uống
Các chuyên gia từ Đại học Flinders đã tiến hành khảo sát và phát hiện ra rằng "từ chối bản thân" là một trong những rào cản chính đối với người trẻ dưới 25 tuổi trong việc thực hiện chương trình can thiệp sớm đối với hội chứng rối loạn ăn uống, mặc dù mô hình chăm sóc sức khoẻ này mang lại những kết quả tốt đối với những cá nhân đang tìm kiếm sự trợ giúp cho chứng bệnh của bản thân.
Chương trình nghiên cứu được thực hiện tại 2 khu vực có tình trạng kinh tế xã hội thấp là phía bắc và phía nam Adelaide. Theo phản hồi từ những người tham gia trong chương trình cho thấy 1 trong những trở ngại đầu tiên đó là sự từ chối của cá nhân trong việc thừa nhận rằng mình mắc hội chứng rối loạn ăn uống.
TS. Marcela Radunz (Nhà nghiên cứu tâm lý và công tác xã hội, Trường ĐH Giáo dục) cho biết nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng rào cản chính được nhận diện ở những người tham gia đó là việc họ cho rằng tình trạng của bản thân chưa xấu tới mức phải cần tới sự trợ giúp hay can thiệp.
Trên thực tế, căn cứ trên những nghiên cứu trước đây, các chuyên gia thấy rằng những triệu chứng rối loạn ăn uống nghiêm trọng có sự liên hệ với việc không thừa nhận chứng bệnh và việc từ chối nhận sự trợ giúp của mỗi cá nhân.
Do đó, các chuyên gia đề xuất rằng các chương trình can thiệp sớm đối với vấn đề rối loạn ăn uống cần phải được đưa vào danh mục chăm sóc sức khoẻ chính, nơi mỗi cá nhân bị rối loạn ăn uống không bị yêu cầu phải có sự giới thiệu của bác sĩ. Điều này có thể giúp phát triển nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ sớm hơn, đồng thời góp phần nâng cao tính sẵn sàng của mỗi cá nhân trong việc thừa nhận và tiếp nhận sự trợ giúp.
80 người tham gia khảo sát đã bắt đầu chương trình Emerge-ED trong giai đoạn 2020-2022. Rào cản lớn nhất mà họ chỉ ra đó là vấn đề về niềm tin-niềm tin rằng vấn đề của họ vẫn ổn, vẫn chưa đủ xấu để can thiệp.
Trở ngại đối với việc điều trị tại những khu vực dân số có tình hình kinh tế-xã hội thấp bao gồm vấn đề an ninh lương thực và tình trạng dinh dưỡng thấp, vấn đề sử dụng đồ uống có cồn và chất kích thích, sức khoẻ tâm thần, các loại bệnh khác và thiếu mạng lưới hỗ trợ đối với các gia đình và với người trẻ tuổi. Những vấn đề khác về ăn uống như rối loạn ăn uống quá đà/vô độ và rối loạn hấp thụ thực phẩm do né tránh/hạn chế (ARFID-Avoidance/Restrictive Food Intake Disorder) không thuộc phạm vi của chương trình điều trị.
Theo GS. Tracey Wade (GS Tâm lý học, đồng tác giả nghiên cứu), bất chấp các vấn đề được đề cập ở trên, những hành vi rối loạn ăn uống vẫn tiếp tục gia tăng. do đó các chương trình và mô hình can thiệp sớm càng cho thấy được tầm quan trọng trong bối cảnh chăm sóc sức khoẻ, góp phần hỗ trợ tất cả các thành viên trong cộng đồng.
Đại dịch COVID-19 đã làm trầm trọng hơn sự phổ biến của các hội chứng rối loạn ăn uống, trở thành căn bệnh có tỷ lệ tử vọng lớn nhất trong số các chứng bệnh về tâm thần. Do đó các chương trình can thiệp sớm là một yếu tố rất quan trọng bởi khả năng chủ động rà soát, phát hiện và cung cấp phương pháp trị liệu hiệu quả và nhanh chóng cho bệnh nhân.
Một nghiên cứu tại Mỹ cho thấy 5.7% phụ nữ và 2.2% nam giới mắc hội chứng rối loạn ăn uống, trở thành một thách thức thực sự đối với sức khoẻ cộng đồng và các tổ chức cá nhân tham gia vào lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ.
GS. Wade cho rằng sự phổ biến của chứng bệnh rối loạn ăn uống ở người trẻ đã gia tăng lên 15% kể từ khi đại dịch xuất hiện, dẫn tới việc nhu cầu điều trị rối loạn ăn uống tăng lên gấp 3 lần so với trước đây.
Trong khi đó, tại Adelaide, chương trình điều trị rối loạn ăn uống hiện nay đang trong quá trình thử nghiệm nhằm giúp người bệnh vượt qua tâm lý tự chối bỏ và khuyến khích việc cân bằng dinh dưỡng, giới thiệu những kỹ năng làm giảm bớt căng thẳng và kiểm soát cảm xúc. Kết quả sơ bộ của chương trình thử nghiệm cho thấy 43% người tham gia đã giảm bớt những hạn chế trong chế độ ăn uống xuống 30%. Điều này có nghĩa rằng các biện pháp can thiệp như thế này có thể mang lại cho cá nhân sự khởi đầu nhanh hơn và họ có thể sẽ chỉ cần điều trị ít hơn
- Professional skills development for University lecturers: A case study in the Mekong Delta region of VietnamNghiên cứu10/06/2025
- Management of primary teacher training programs using the CDIO approach: Theoretical frameworks and practical implementationsNghiên cứu03/06/2025
- Nghiên cứu mối liên quan giữa tật cận thị và một số yếu tố khác với tình trạng lo âu của sinh viên 2 năm đầu đại họcNghiên cứu22/05/2025
- Mối liên quan giữa tình trạng lo âu với tật cận thị và một số yếu tố khác của sinh viên năm cuối đại họcNghiên cứu13/05/2025
- Đổi mới quản lý cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ đại họcNghiên cứu01/05/2025
- Xây dựng và sử dụng khung năng lực trong phát triển đội ngũ giáo viên làm công tác tư vấn học đường ở trường tiểu họcNghiên cứu07/04/2025
- Tổng quan các nghiên cứu phát triển năng lực số cho sinh viên đại học ngành giáo dục tiểu họcNghiên cứu04/04/2025
- Bản đồ cơ thể đầu tiên về ảo giácNghiên cứu01/04/2025
- Thông tin tuyển sinh ngành Tâm lý học giáo dục 2025Tin tức19/06/2025
- Thông tin tuyển sinh ngành Quản lý giáo dục 2025Tin tức18/06/2025
- Công bố kết quả PISA 2022 của Việt NamTin tức17/06/2025
- Luật Nhà giáo đã được thông quaTin tức17/06/2025
- Một bài tập hồi tưởng trước khi đi ngủ có thể cải thiện trí nhớ ở người cao tuổi, bao gồm cả những người mắc và không mắc bệnh AlzheimerTin tức11/06/2025
- Professional skills development for University lecturers: A case study in the Mekong Delta region of VietnamNghiên cứu10/06/2025
- Thế hệ Gen Z trong môi trường công sở: Phá vỡ định kiến từ góc nhìn tâm lý học tổ chứcTin tức05/06/2025
- Top 10 xu hướng tâm lý học cần chú ý trong năm 2025Tin tức04/06/2025