Thời gian tiếp xúc màn hình thiết bị điện tử đang thay thế những cơ hội ngôn ngữ quan trọng đối với trẻ
Nghiên cứu mới được dẫn dắt bởi TS. Mary Brushe (Chuyên viên nghiên cứu cao cấp từ Viện nghiên cứu trẻ em Telethon và Đại học Adelaide), đã tiến hành đánh giá 220 hộ gia đình tại Australia trong hơn 2.5 năm nhằm đo lường mối quan hệ giữa thời gian tiếp xúc với màn hình thiết bị điện tử (sau đây gọi tắt là màn hình) và môi trường ngôn ngữ của trẻ.
Tác giả tiến hành xem xét việc sử dụng các thiết bị điện tử như giống như đồng hồ Fibit để đo lường lượng nhiễu điện tử và cuộc nói chuyện giữa bố mẹ với trẻ trong độ tuổi 12-36 tháng. Nhiễu điện tử bao gồm sóng nhiễu từ màn hình thiết bị của bố mẹ hoặc của trẻ.
Thiết bị này được trẻ đeo trong 16 tiếng và ở những thời điểm khác nhau (khi trẻ bước sang tháng tuổi thứ 12, 18, 24, 30 và 36). Thiết bị sử dụng công nghệ nhận diện giọng nói LENA nhằm khám phá số lượng từ mà người lớn sử dụng, lượng từ mà trẻ phát âm và sự tương tác giữa bố mẹ với trẻ trong giai đoạn nghiên cứu.
Trong tất cả các thời điểm, các nhà nghiên cứu đã mã hoá hơn 7000 giờ âm thanh (audio) để tính toán lượng thời gian trẻ tiếp xúc với màn hình thay vì những kiểu nhiễu điện tử khác.
Theo TS. Brushe, nhóm nghiên cứu muốn hiểu thêm về dung lượng thời gian trẻ tiếp xúc màn hình trong những năm tháng đầu đời và liệu rằng điều này có gây trở ngại với lượng ngôn ngữ mà trẻ nghe thấy hay nói ra khi ở nhà hay không.
TS. Brushe cho biết thời lượng phát âm và tương tác của trẻ là rất quan trọng cho sự phát triển ngôn ngữ, và việc tiếp xúc nhiều với màn hình sẽ khiến trẻ bị mất đi cơ hội quý giá này. Công bố của nhóm trên tạp chí JAMA cho thấy rằng trong giai đoạn đầu đời, trẻ càng tiếp xúc nhiều với màn hình thì tương tác giữa bố mẹ với trẻ càng ít
Kết quả nghiên cứu của nhóm cũng góp phần củng cố cho khái niệm "technoference" (interference of technology - sự gián đoán do công nghệ gây ra) vốn đang là một vấn đề thực sự đối với các hộ gia đình tại Australia. Trong vấn đề này, thời gian tiếp xúc màn hình của trẻ đã làm gián đoạn cơ hội nói chuyện và tương tác với môi trường gia đình của mình. Tình trạng này càng đáng lo ngại hơn khi trẻ bước sang tuổi thứ 3, trong đó với chỉ 1 phút tiếp xúc màn hình, trẻ sẽ tiếp nhận ít hơn 7 từ mà người lớn nói, phát âm ít hơn 5 từ và giảm 1 tương tác với người trong gia đình.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đối với những trẻ đến từ hộ gia đình đang tuân thủ theo khuyến nghị về thời gian tiếp xúc màn hình của WHO (1h/ngày đối vởi trẻ 36 tháng), các bé có thể sẽ bị bỏ lỡ 397 từ của người lớn, 68 lượt trò chuyện cũng như 294 lượt phát âm mỗi ngày. Dựa trên thời gian tiếp xúc màn hình trung bình trên thực tế của trẻ 36 tháng (172 phút hoặc dưới 3 tiếng), các bé có thể đang bị bỏ lỡ lên tới 1139 từ của người lớn, 843 lượt phát âm và 194 lượt trò chuyện mỗi ngày.
Điều thú vị ở đây là nghiên cứu lần này không ghi nhận thời gian sử dụng điện thoại của bố mẹ trước mặt các bé. Các thiết bị nghiên cứu chỉ ghi nhận nhiễu từ thời gian tiếp xúc màn hình của trẻ bao gồm xem TV, video hoặc chơi game. Nhóm tác giả cũng có thể đang đánh giá thấp lượng thời gian sử dụng màn hình bởi họ không thể ghi nhận các hoạt động liên quan tới tiếp xúc màn hình của các ông bố bà mẹ, trong đó bao gồm đọc email, soạn thảo văn bản hoặc lướt web, sử dụng mạng xã hội
Những gia đình tham gia vào nghiên cứu không được biết về thời gian đo lường dung lượng tiếp xúc màn hình. Phân tích này được tiến hành theo phương thức hồi cố, sau khi nhận được sự đồng thuận của các gia đình. Điều này có nghĩa là nhóm nghiên cứu đã có được góc nhìn thực tế hơn về thời gian tiếp xúc màn hình của trẻ bởi các bậc phụ huynh vẫn giữ nguyên thói quen sử dụng thiết bị hằng ngày của mình.
TS. Brushe cho rằng khi việc tiếp xúc với màn hình trở thành một phần quen thuộc trong đời sống hằng ngày của hầu hết mỗi người, vẫn còn những cách thức để có thể giảm bớt ảnh hưởng tiềm ẩn đối với trẻ. Bố mẹ và các thành viên trong gia đình cần phải nghĩ về những gì mà các bé có thể bỏ lỡ khi họ quyết định lựa chọn việc bật màn hình lên. Tuy nhiên, họ cũng có thể lựa chọn hình thức tương tác và xem màn hình song song như là một cách để giảm bớt gánh nặng của việc tiếp xúc màn hình hoặc chủ động trò chuyện cùng bé khi màn hình đang bật sáng.
- Professional skills development for University lecturers: A case study in the Mekong Delta region of VietnamNghiên cứu10/06/2025
- Management of primary teacher training programs using the CDIO approach: Theoretical frameworks and practical implementationsNghiên cứu03/06/2025
- Nghiên cứu mối liên quan giữa tật cận thị và một số yếu tố khác với tình trạng lo âu của sinh viên 2 năm đầu đại họcNghiên cứu22/05/2025
- Mối liên quan giữa tình trạng lo âu với tật cận thị và một số yếu tố khác của sinh viên năm cuối đại họcNghiên cứu13/05/2025
- Đổi mới quản lý cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ đại họcNghiên cứu01/05/2025
- Xây dựng và sử dụng khung năng lực trong phát triển đội ngũ giáo viên làm công tác tư vấn học đường ở trường tiểu họcNghiên cứu07/04/2025
- Tổng quan các nghiên cứu phát triển năng lực số cho sinh viên đại học ngành giáo dục tiểu họcNghiên cứu04/04/2025
- Bản đồ cơ thể đầu tiên về ảo giácNghiên cứu01/04/2025
- Thông tin tuyển sinh ngành Tâm lý học giáo dục 2025Tin tức19/06/2025
- Thông tin tuyển sinh ngành Quản lý giáo dục 2025Tin tức18/06/2025
- Công bố kết quả PISA 2022 của Việt NamTin tức17/06/2025
- Luật Nhà giáo đã được thông quaTin tức17/06/2025
- Một bài tập hồi tưởng trước khi đi ngủ có thể cải thiện trí nhớ ở người cao tuổi, bao gồm cả những người mắc và không mắc bệnh AlzheimerTin tức11/06/2025
- Professional skills development for University lecturers: A case study in the Mekong Delta region of VietnamNghiên cứu10/06/2025
- Thế hệ Gen Z trong môi trường công sở: Phá vỡ định kiến từ góc nhìn tâm lý học tổ chứcTin tức05/06/2025
- Top 10 xu hướng tâm lý học cần chú ý trong năm 2025Tin tức04/06/2025