Tìm hiểu về nhân cách (P1)
Hoàng, My và Quyết là bạn thời đại học và đều muốn trở thành cảnh sát. Hoàng ít nói và nhút nhát, thiếu tự tin và thường đi theo người khác. Anh ấy là một người tốt bụng, nhưng thiếu động lực. My là một nhà lãnh đạo năng nổ và nhiệt huyết. Cô ấy làm việc chăm chỉ, nhưng bốc đồng và uống quá nhiều rượu vào cuối tuần. Quyết là người chu đáo và được yêu mến. Anh ấy là người đáng tin cậy, nhưng đôi khi anh khó đưa ra quyết định nhanh chóng. Trong ba người này, ai sẽ là cảnh sát giỏi nhất? Những phẩm chất và yếu tố nhân cách nào khiến một người trở thành cảnh sát giỏi? Điều gì khiến ai đó trở thành cảnh sát xấu hoặc nguy hiểm?Công việc của một cảnh sát rất căng thẳng và các cơ quan thực thi pháp luật muốn đảm bảo rằng họ tuyển dụng đúng người. Và kiểm tra tính cách thường được sử dụng cho mục đích này nhằm mục đích sàng lọc các ứng viên xin việc và đào tạo việc làm. Các bài kiểm tra nhân cách cũng được sử dụng trong các vụ án hình sự và cuộc chiến giành quyền nuôi con, và để đánh giá các rối loạn tâm lý.
Nét nhân cách
Các nhà nghiên cứu về nét nhân cách tin rằng nhân cách có thể được hiểu theo cách tiếp cận rằng tất cả mọi người đều có những nét nhất định hoặc những cách cư xử đặc trưng. Bạn có xu hướng hòa đồng hay nhút nhát? Bị động hay hung hăng? Lạc quan hay bi quan? Dễ xúc động hay lãnh đạm? Các nhà lý thuyết đặc điểm thế hệ đầu đã cố gắng mô tả tất cả các nét nhân cách cách của con người. Ví dụ, Gordon Allport (Allport & Odbert, 1936), đã tìm thấy 4.500 từ trong tiếng Anh có thể mô tả con người. Ông sắp xếp những đặc điểm tính cách này thành ba loại: nét nhân cách chủ yếu, nét nhân cách trung tâm và nét nhân cách phụ. Nét nhân cách chủ yếu chi phối toàn bộ nhân cách của bạn và ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn — chẳng hạn như lòng tham của Ebenezer Scrooge và lòng vị tha của Mẹ Theresa. Nét nhân cách chủ yếu không phổ biến lắm: Ít người có tính cách bị chi phối bởi một nét duy nhất. Thay vào đó, nhân cách của chúng ta thường bao gồm nhiều nét. Nét trung tâm là tạo nên nhân cách của chúng ta (chẳng hạn như trung thành, tốt bụng, dễ chịu, thân thiện, lén lút, hoang dã và cáu kỉnh). Các đặc tính phụ là những nét không hoàn toàn rõ ràng hoặc nhất quán như trung tâm. Chúng hiện diện trong những hoàn cảnh cụ thể và bao gồm sở thích và thái độ. Ví dụ, một người tức giận khi mọi người cố gắng cù anh ta; người khác chỉ có thể ngủ ở bên trái giường; và một người khác luôn gọi món nước sốt salad ở bên cạnh cô ấy. Và bạn — mặc dù bình thường không phải là người hay lo lắng — cảm thấy lo lắng trước khi phát biểu trước lớp tiếng Anh của mình.
Trong một nỗ lực để làm cho danh sách các nét dễ nhận biết hơn, Raymond Cattell (1946, 1957) đã thu hẹp danh sách xuống còn khoảng 171. Tuy nhiên, việc nói rằng một nét có hoặc không có không phản ánh chính xác tính cá thể của một người, bởi vì tất cả tính cách của chúng ta thực sự được tạo thành từ những nét giống nhau; chúng ta chỉ khác nhau về mức độ biểu hiện của mỗi nét. Cattell (1957) đã xác định được 16 yếu tố hoặc chiều hướng của tính cách: ấm áp, lý trí, ổn định cảm xúc, thống trị, sống động, ý thức quy tắc, mạnh dạn xã hội, nhạy cảm, cảnh giác, trừu tượng, kín đáo, e ngại, cởi mở để thay đổi, tự lập, chủ nghĩa hoàn hảo, và căng thẳng (Bảng 1). Ông đã phát triển một bản đánh giá tính cách dựa trên 16 yếu tố này, được gọi là 16PF. Thay vì một nét có mặt hoặc vắng mặt, mỗi chiều được tính điểm trên một chuỗi liên tục, từ cao đến thấp. Ví dụ, mức độ ấm áp của bạn mô tả mức độ ấm áp, quan tâm và tốt với người khác của bạn. Nếu bạn đạt điểm thấp ở chỉ số này, bạn có xu hướng xa cách và lạnh lùng hơn. Các nhà tâm lý học Hans và Sybil Eysenck là những nhà lý thuyết nhân cách tập trung vào tính khí [temperament], sự khác biệt tính cách bẩm sinh, dựa trên di truyền mà bạn đã nghiên cứu trước đó trong chương. Họ tin rằng tính cách phần lớn bị chi phối bởi sinh học. The Eysencks (Eysenck, 1990, 1992; Eysenck & Eysenck, 1963) xem con người có hai chiều hướng tính cách cụ thể: hướng ngoại / hướng nội và nhiễu tâm / ổn định.
Bảng 1. Personality Factors Measured by the 16PF Questionnaire | ||
---|---|---|
Factor | Low Score | High Score |
Warmth | Reserved, detached | Outgoing, supportive |
Intellect | Concrete thinker | Analytical |
Emotional stability | Moody, irritable | Stable, calm |
Aggressiveness | Docile, submissive | Controlling, dominant |
Liveliness | Somber, prudent | Adventurous, spontaneous |
Dutifulness | Unreliable | Conscientious |
Social assertiveness | Shy, restrained | Uninhibited, bold |
Sensitivity | Tough-minded | Sensitive, caring |
Paranoia | Trusting | Suspicious |
Abstractness | Conventional | Imaginative |
Introversion | Open, straightforward | Private, shrewd |
Anxiety | Confident | Apprehensive |
Openmindedness | Closeminded, traditional | Curious, experimental |
Independence | Outgoing, social | Self-sufficient |
Perfectionism | Disorganized, casual | Organized, precise |
Tension | Relaxed | Stressed |
Theo lý thuyết của họ, những người có nét hướng ngoại là hòa đồng và thoải mái, và dễ dàng kết nối với những người khác, trong khi những người có nét hướng nội cao hơn có nhu cầu ở một mình, tham gia vào các hành vi đơn độc và hạn chế tương tác với người khác. Trong khía cạnh nhiễu tâm / ổn định, những người đề cao chứng loạn thần kinh có xu hướng lo lắng; họ có xu hướng có một hệ thống thần kinh giao cảm hoạt động quá mức và, ngay cả khi căng thẳng thấp, cơ thể và trạng thái cảm xúc của họ có xu hướng đi vào phản ứng chiến-hay-chạy. Ngược lại, những người đề cao sự ổn định có xu hướng cần nhiều kích thích hơn để kích hoạt phản ứng chiến-hay-chạy và được coi là ổn định hơn về mặt cảm xúc. Dựa trên hai chiều này, lý thuyết của Eysencks chia con người thành bốn lần phần tư. Những lần phần tư này đôi khi được so sánh với bốn tính khí được người Hy Lạp mô tả: Sầu muộn, nóng tính, lạnh lùng và lạc quan (Hình 1).
Sau đó, Eysencks bổ sung thêm một khía cạnh thứ ba: rối loạn tâm thần và kiểm soát siêu ngã (Eysenck, Eysenck & Barrett, 1985). Trong khía cạnh này, những người cao về chứng loạn thần có xu hướng là những người suy nghĩ độc lập, lạnh lùng, không phù hợp, bốc đồng, chống đối xã hội và thù địch, trong khi những người có khả năng kiểm soát siêu cao có xu hướng kiểm soát xung động cao - họ vị tha, đồng cảm và hợp tác hơn, và sống theo tập quán (Eysenck, Eysenck & Barrett, 1985).
Trong khi 16 nhân tố của Cattell có thể quá rộng, hệ thống hai nhân tố của Eysenck đã bị chỉ trích là quá hẹp. Một lý thuyết nhân cách khác, được gọi là Mô hình Năm yếu tố, đánh vào điểm trung gian một cách hiệu quả, với năm yếu tố của nó được gọi là Năm yếu tố tính cách lớn. Đây là lý thuyết phổ biến nhất trong tâm lý học nhân cách ngày nay và là lý thuyết gần đúng chính xác nhất của các khía cạnh tính cách cơ bản (Funder, 2001). Năm yếu tố là cởi mở, tận tâm, hướng ngoại, dễ chịu và bất ổn (Hình 8). Một cách hữu ích để ghi nhớ các yếu tố là sử dụng OCEAN dễ ghi nhớ.
Trong Mô hình Năm yếu tố, mỗi người có mỗi yếu tố, nhưng chúng xảy ra dọc theo một phổ. Sự cởi mở với trải nghiệm được đặc trưng bởi trí tưởng tượng, cảm xúc, hành động và ý tưởng. Những người đạt điểm cao về yếu tố này có xu hướng tò mò và có nhiều mối quan tâm. Sự tận tâm được đặc trưng bởi năng lực, kỷ luật tự giác, chu đáo và phấn đấu đạt được (hành vi hướng tới mục tiêu). Những người đạt điểm cao về yếu tố này là những người chăm chỉ và đáng tin cậy. Nhiều nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan thuận giữa sự tận tâm và thành công trong học tập (Akomolafe, 2013; Chamorro-Premuzic & Furnham, 2008; Conrad & Patry, 2012; Noftle & Robins, 2007; Wagerman & Funder, 2007). Tính cách hướng ngoại có nét là hòa đồng, quyết đoán, thích tìm kiếm sự phấn khích và biểu lộ cảm xúc. Những người đạt điểm cao về yếu tố này thường được mô tả là người hướng ngoại và ấm áp. Không có gì ngạc nhiên khi những người đạt điểm cao về cả tính cách hướng ngoại và tính cởi mở có nhiều khả năng tham gia vào các môn thể thao mạo hiểm và mạo hiểm do bản tính tò mò và tìm kiếm sự phấn khích của họ (Tok, 2011). Yếu tố thứ tư là sự dễ chịu, là xu hướng dễ hài lòng, hợp tác, đáng tin cậy và tốt bụng. Những người đạt điểm thấp về mức độ dễ chịu có xu hướng được mô tả là thô lỗ và bất hợp tác, tuy nhiên một nghiên cứu gần đây đã báo cáo rằng những người đàn ông đạt điểm thấp về yếu tố này thực sự kiếm được nhiều tiền hơn những người đàn ông được coi là dễ chịu hơn (Judge, Livingston, & Hurst, 2012). Yếu tố cuối cùng trong Năm yếu tố lớn là chứng loạn thần kinh, tức là xu hướng trải nghiệm những cảm xúc tiêu cực. Những người mắc chứng loạn thần kinh cao có xu hướng cảm thấy không ổn định và có nét là tức giận, bốc đồng và thù địch. Watson và Clark (1984) phát hiện ra rằng những người báo cáo mức độ rối loạn thần kinh cao cũng có xu hướng cảm thấy lo lắng và không vui. Ngược lại, những người có điểm số thấp trong nhiễu tâm có xu hướng bình tĩnh và nóng tính.
Mỗi nhân tố trong Big Five đại diện cho một phạm vi giữa hai thái cực. Trong thực tế, hầu hết chúng ta có xu hướng nằm ở đâu đó giữa các yếu tố liên tục, hơn là ở các cực. Điều quan trọng cần lưu ý là Năm yếu tố lớn tương đối ổn định trong suốt thời gian tồn tại của chúng ta, với một số xu hướng tăng hoặc giảm nhẹ. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng sự tận tâm tăng lên qua độ tuổi thanh niên cho đến tuổi trung niên, khi chúng ta trở nên có khả năng quản lý tốt hơn các mối quan hệ cá nhân và sự nghiệp của mình (Donnellan & Lucas, 2008). Tính dễ chịu cũng tăng theo tuổi tác, đạt đỉnh điểm từ 50 đến 70 tuổi (Terracciano, McCrae, Brant, & Costa, 2005). Rối loạn thần kinh và hướng ngoại có xu hướng giảm nhẹ theo tuổi tác (Donnellan & Lucas; Terracciano et al.). Ngoài ra, Năm nhân tố lớn đã được chứng minh là tồn tại ở các dân tộc, văn hóa và lứa tuổi, và có thể có các thành phần di truyền và sinh học đáng kể (Jang, Livesley, & Vernon, 1996; Jang và cộng sự, 2006; McCrae & Costa, 1997; Schmitt và cộng sự, 2007).
Một mô hình nét tính cách khác là mô hình HEXACO. HEXACO là từ viết tắt của sáu nét rộng: trung thực-khiêm tốn, đa cảm, hướng ngoại, dễ chịu, tận tâm và sự cởi mở để trải nghiệm (Anglim & O’Connor, 2018). Bảng 2 cung cấp tổng quan ngắn gọn về từng nét.
Bảng 2. The HEXACO Traits | |
---|---|
Trait | Example Aspects of Trait |
(H) Honesty-humility | Sincerity, modesty, faithfulness |
(E) Emotionality | Sentimentality, anxiety, sensitivity |
(X) Extraversion | Sociability, talkativeness, boldness |
(A) Agreeableness | Patience, tolerance, gentleness |
(C) Conscientiousness | Organization, thoroughness, precision |
(O) Openness | Creativity, inquisitiveness, innovativeness |
- Current Status of Developing Primary School Teacher Training Programs Approaching CdioNghiên cứu16/11/2024
- Đặc trưng chất lượng đào tạo của các trường Đại học Sư phạm/khoa Sư phạm trong bối cảnh hiện nayNghiên cứu07/10/2024
- XÂY DỰNG KHUNG NĂNG LỰC SỐ CỦA GIÁO VIÊN VÀ SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH 2018Nghiên cứu04/10/2024
- Trẻ em có thể dạy cho chúng ta điều gì về khoa học thần kinh ẩn sau sự tò mòNghiên cứu06/09/2024
- Các nhà tâm lý học phát hiện ra hiện tượng sởn gai ốc diễn ra thường xuyên hơn chúng ta nghĩNghiên cứu21/06/2024
- A Systematic Review of Problem-Solving Skill Development for Students in STEM EducationNghiên cứu06/06/2024
- Proposing and Experimenting with a Public University Governance Model and MechanismsNghiên cứu03/06/2024
- Internal Quality Assurance of Initial Teacher Education Programs in Vietnam: A Descriptive StudyNghiên cứu03/06/2024
- Current Status of Developing Primary School Teacher Training Programs Approaching CdioNghiên cứu16/11/2024
- Khoa Giáo dục Tiểu học tổ chức seminar khoa học về ứng dụng AI và hệ sinh thái Microsoft trong đào tạoNghiên cứu12/11/2024
- Tọa đàm kỉ niệm 65 năm thành lập khoa Ngữ văn (1959-2024)Tin tức11/11/2024
- KHOA VĂN NGÀY ẤY...Nghiên cứu07/11/2024
- THẦY... CHƠI CHỮNghiên cứu07/11/2024
- Kế hoạch tổ chức Tháng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và Hội thi Nghiệp vụ sư phạm Khoa Giáo dục Tiểu học năm học 2024-2025Đào tạo05/11/2024
- Hội thảo khoa học quốc gia “Một số vấn đề thời sự trong nghiên cứu và giảng dạy Toán học” (ngày 09 tháng 11 năm 2024)Tin tức04/11/2024
- Nhớ về một thế hệ vàng - Những người thầy của tôiKhoa Ngữ văn03/11/2024