Tình trạng lo âu, căng thẳng đang gia tăng, sự cô đơn là tình trạng phổ biến nhất trong giới trẻ
Cảm giác cô đơn và đau khổ tâm lý đã trở nên phổ biến hơn trong đại dịch, và các nhà nghiên cứu hiện đang rất lo ngại về sự kéo dài của xu hướng này. Dữ liệu cho thấy giới trẻ đang có xu hướng sử dụng thuốc lá điện tử nhiều hơn phần còn lại của dân số. Báo cáo khảo sát HILDA hàng năm (phiên bản thứ 18) đã tiến hành xem xét dữ liệu thu thập được trong giai đoạn 2001-2021 đối với 17.000 người tới từ 9.000 hộ gia đình khác nhau.
Báo cáo này cung cấp những dữ liệu giá trị về tình hình sức khoẻ của nền kinh tế Australia, các hộ gia đình và đời sống xã hội, tình hình sức khoẻ thể chất và tâm thần của người dân. Phiên bản lần này cũng bao gồm những hiểu biết về việc sử dụng thuốc lá điện tử lần đầu tiên và trong năm thứ 2 của đại dịch COVID-19.
Đặc điểm nổi bật của HILDA là việc phỏng vấn cùng những cá nhân và hộ gia đình giống nhau mỗi năm, cho phép các nhà nghiên cứu nhìn thấy được sự thay đổi của họ theo thời gian. Theo GS. Roger WIlkins (trưởng nhóm nghiên cứu), dữ liệu cũng có thể cho biết về tiền đề cũng như hệ quả của cuộc sống như nghèo đói, thất nghiệp, ly hôn và sức khoẻ yếu. Điều này có được là do chúng ta có thể thấy hành trình mà cuộc sống của mỗi người sẽ ưu tiên cũng như con đường mà họ sẽ nhận lại sau đó.
Tình trạng cô đơn đang đạt mức cao nhất trong giới trẻ
Trong giai đoạn 2001-2009, tỷ lệ lớn nhất đối với cảm giác cô đơn đến từ nhóm tuổi từ 65 trở lên. Tuy nhiên, tới 2021, người cao tuổi chỉ còn chiếm một tỷ lệ thấp nhất về tình trạng cô đơn, trong khi lứa tuổi 15-24 trở thành nhóm có tỷ lệ tình trạng cô đơn cao nhất. Tất cả những nhóm tuổi khác đều có tỷ lệ người cô đơn trong năm 2021 thấp hơn năm 2001. Như vậy, đã có một xu hướng rất rõ ràng về việc người trẻ đang ngày càng cô đơn hơn và cảm thấy bị cách li hơn theo thời gian. Theo TS. Ferdi Botha (đồng tác giả nghiên cứu), nếu không đưa ra chính sách cũng như những hành động một cách kịp thời để ngăn chặn, chúng ta có thể sẽ thấy tình trạng cô đơn và đau khổ tâm lý ngày càng gia tăng trong thế hệ trẻ, dẫn tới các chỉ số thấp hơn về sức khoẻ thể chất và tâm thần cũng như các vấn đề khác lớn hơn xuất hiện trong xã hội.
TS. Botha cho biết tình trạng cô đơn gia tăng trong 2 năm đầu của đại dịch COVID-19, tuy nhiên hiện đang có xu hướng gia tăng hơn đối với người trẻ. Điều này có thể có sự kết nối với sự phát triển của điện thoại thông minh cũng như hành vi sử dụng mạng xã hội.
Đau khổ tâm lý gia tăng
Các mức độ đau khổ tâm lý cho thấy xu hướng giảm bớt theo độ tuổi, trong đó nhóm 15-24 tuổi có điểm trung bình về đau khổ tâm lý cao nhất tai thời điểm năm 2021. Gần 1/2 (42.3%) người từ 15-24 tuổi mắc chứng đau khổ tâm lý trong năm 2021, tăng từ mốc 18.4% trong năm 2011.
Trong giai đoạn 2007-2021, tỷ lệ nữ giới bị đau khổ tâm lý cao hơn so với nam giới. Đối với nam giới, mức độ phổ biến của đau khổ tâm lý gia tăng lên 51% trong giai đoạn này, trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ là 63%.
HILDA xem xét dữ liệu về thuốc lá điện tử
Dữ liệu 2021 cho thấy 14.1% người từ 15 tuổi trở lên đã sử dụng thuốc lá điện tử hoặc các dụng cụ vape. Đàn ông có xu hướng sử dụng loại sản phẩm này nhiều hơn phụ nữ. Những người hút thuốc có khả năng sử dụng vape cao hơn 19.3% so với những người không hút thuốc.
Tuổi tác là một yếu tố nổi bật trong việc sử dụng thuốc lá điện tử ở nhóm tuổi 15-19, với khả năng sử dụng được dự đoán là cao hơn 13.8% so với nhóm tuổi 30-39. Theo GS. Wilkins, điều này có nghĩa là giới trẻ có xu hướng sử dụng thuốc lá điện tử cao hơn so với các giáo viên cũng như các bậc phụ huynh.
Tỷ lệ kết hôn giảm, tuy nhiên các cặp đôi có khả năng tài chính tốt hơn
Hiện đang có sự sụt giảm về tỷ lệ kết hôn được phản ánh trong mức tăng trưởng thực tế đối với các mối quan hệ trong giai đoạn 2001-2021. Đối với đàn ông, tỷ lệ kết hôn giảm từ 56.3% trong năm 2001 xuống còn 50.3%, trong khi tỷ lệ về các mối quan hệ không chính thức (de facto relationship) lại tăng từ 9% lên 14.7%. Đối với nữ giới, tỷ lệ kết hôn giảm từ 54.5% xuống 48.2%, trong khi các mối quan hệ không chính thức tăng từ 8.9% lên 14.3%.
Đi từ mối quan hệ cặp đôi tới tình trạng độc thân dẫn tới nhiều tác dụng ngược đối với phụ nữ hơn so với nam giới, trong đó mức thu nhập hộ gia đình sụt giảm trung bình ít nhất 16.7%. Sự thay đổi từ từ một người mẹ trong hộ gia đình bình thường sang làm mẹ đơn thân có liên hệ với mức sụt giảm 20% về thu nhập hộ gia đình, trong khi tình trạng ngược lại sẽ mang tới mức gia tăng thu nhập từ 22.4% đến 28.5% . GS. Wilkins cho biết, so với năm 2001, thu nhập hộ gia đình cao hơn bởi có sự giảm nhẹ đối với mức thuế phải đóng. Sự bất bình đẳng kinh tế đã giảm nhẹ với sự xuất hiện của COVID. Tình hình này ở mức thấp nhất trong năm 2020 và tăng nhẹ năm 2021, nhưng vẫn ở mức thấp hơn so với trước đại dịch.
Phụ nữ có xu hướng làm việc nhiều hơn khi cảm thấy không được khoẻ
Trong 4 tuần trước cuộc khảo sát, 16.8% đàn ông và 19.8% phụ nữ đang đi làm cho thấy họ làm việc ngay cả khi cảm thấy không khoẻ về thể chất. Trong khi đó 11.1% đàn ông và 19/1% phụ nữ đang làm việc khi cảm thấy không khoẻ về tâm thần. Tổng cộng, 22.5% đàn ông và 29.6% phụ nữ làm việc khi không khoẻ về thể chất và/hoặc tâm thần.
Những người mắc khuyết tật ở mức độ vừa và nặng, hoặc đang trong tình trạng sức khoẻ tâm thần kém sẽ có xu hướng làm việc nhiều hơn khi cảm thấy không khoẻ.
- Current Status of Developing Primary School Teacher Training Programs Approaching CdioNghiên cứu16/11/2024
- Đặc trưng chất lượng đào tạo của các trường Đại học Sư phạm/khoa Sư phạm trong bối cảnh hiện nayNghiên cứu07/10/2024
- XÂY DỰNG KHUNG NĂNG LỰC SỐ CỦA GIÁO VIÊN VÀ SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH 2018Nghiên cứu04/10/2024
- Trẻ em có thể dạy cho chúng ta điều gì về khoa học thần kinh ẩn sau sự tò mòNghiên cứu06/09/2024
- Các nhà tâm lý học phát hiện ra hiện tượng sởn gai ốc diễn ra thường xuyên hơn chúng ta nghĩNghiên cứu21/06/2024
- A Systematic Review of Problem-Solving Skill Development for Students in STEM EducationNghiên cứu06/06/2024
- Proposing and Experimenting with a Public University Governance Model and MechanismsNghiên cứu03/06/2024
- Internal Quality Assurance of Initial Teacher Education Programs in Vietnam: A Descriptive StudyNghiên cứu03/06/2024
- Current Status of Developing Primary School Teacher Training Programs Approaching CdioNghiên cứu16/11/2024
- Khoa Giáo dục Tiểu học tổ chức seminar khoa học về ứng dụng AI và hệ sinh thái Microsoft trong đào tạoNghiên cứu12/11/2024
- Tọa đàm kỉ niệm 65 năm thành lập khoa Ngữ văn (1959-2024)Tin tức11/11/2024
- KHOA VĂN NGÀY ẤY...Nghiên cứu07/11/2024
- THẦY... CHƠI CHỮNghiên cứu07/11/2024
- Kế hoạch tổ chức Tháng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và Hội thi Nghiệp vụ sư phạm Khoa Giáo dục Tiểu học năm học 2024-2025Đào tạo05/11/2024
- Hội thảo khoa học quốc gia “Một số vấn đề thời sự trong nghiên cứu và giảng dạy Toán học” (ngày 09 tháng 11 năm 2024)Tin tức04/11/2024
- Nhớ về một thế hệ vàng - Những người thầy của tôiKhoa Ngữ văn03/11/2024