CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt đến đồng bào dân tộc thiểu số - cư dân chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới. Đánh giá cao vị trí trọng yếu của vùng miền núi - nơi có vị trí rất quan trọng về kinh tế, chính trị, đối ngoại và quốc phòng; là vị trí “căn cứ địa cách mạng”, “nơi có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống”, “nơi tiếp giáp các nước láng giềng”… Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến địa bàn chiến lược này và dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam tình cảm đặc biệt. Trong đó, Người không chỉ tin cậy giao những trọng trách của Đảng trong những năm đầy cam go thử thách của cách mạng mà còn chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số để “làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lý lấy mọi công việc của mình” sau khi đã nắm chính quyền cách mạng.
Ngay sau khi trở về Tổ quốc ( 28-1-1941), Người đã chọn Cao Bằng làm điểm dừng chân, xây dựng Cao Bằng và các tỉnh miền núi phía Bắc… làm căn cứ địa của cách mạng. Từ đây, Người đã tuyên truyền, cổ vũ đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia phong trào cách mạng, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; đào tạo đội ngũ cán bộ từ những người con ưu tú của đồng bào các dân tộc thiểu số Tày, Nùng,v.v.. như Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Nọn, Hoàng Văn Thụ, Dương Đại Lâm… thành những “hạt giống đỏ”, góp phần phát triển phong trào cách mạng.
Đến năm 1944, trước những yêu cầu thực tiễn của cách mạng, Người đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách ( 22-12-1944). Trong số 34 cán bộ, chiến sĩ của đội có 29 người là dân tộc thiểu số, còn lại 5 chiến sĩ người dân tộc Kinh. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngay sau khi có chính quyền cách mạng, trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku ngày 19/04/1946, Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu dây liên lạc, hai là vì có kẻ xui giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay, nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có "NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ" để săn sóc cho tất cả các đồng bào.”[1] . Tư tưởng này của Hồ Chí Minh là nguyên tắc cho vấn đề dân tộc ở Việt Nam dó là sự bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau như anh em ruột thịt. Để có được tự do, độc lập và bình đẳng thực sự, không chỉ chăm lo đời sống kinh tế cho đồng bào, mà ngay từ rất sớm Người chỉ đạo: “Chính phủ sẽ chú ý trình độ học thức cho dân tộc. Các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải cố gắng để cùng giành cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do và thái bình”[2]
Người không chỉ thấu hiểu tấm lòng của đồng bào đối với Đảng, với cách mạng, mà Người còn khẳng định thêm tầm quan trọng của vùng miền núi đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, quốc phòng đối với đất nước. Người viết: “Về số người thì đồng bào miền núi chiếm 1 phần 5 tổng số nhân dân nước ta. Miền núi chiếm 2 phần 3 tổng số diện tích nước ta, và có hơn 3.000 cây số biên giới. … miền núi có một địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng của cả nước ta”[3]. Do vậy, Người chỉ rõ nhiệm vụ của các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Chính phủ: “Các chú đều biết là miền núi nước ta chiếm một vị trí quan trọng đối với quốc phòng, đối với kinh tế. Vì vậy, Trung ương Đảng và Chính phủ, mà trực tiếp là các cấp ủy đảng, các ủy ban địa phương, các cô, các chú, phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc…. Làm được như vậy thì vừa nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc, vừa góp phần cung cấp những thứ cần thiết cho Nhà nước”[4].
Đồng thời, với quan điểm nâng cao đời sống kinh tế đối với đồng bào vùng cao, Người chỉ ra hai vấn đề mà Đảng, Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ đồng bào dân tộc: Một là, chống nạn mù chữ, phát triển giáo dục phổ thông; hai là, đào tạo cán bộ người dân tộc. Để xoá nạn mù chữ, Người yêu cầu Đảng, Chính phủ phát động và duy trì phong trào bình dân học vụ trong đồng bào các dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đồng bào phải cố gắng xoá nạn mù chữ. Phải biết đọc, biết viết thì làm ăn mới tiến bộ được”[5]. Người cho rằng: “Về văn hoá ở miền núi đã tiến bộ nhiều. Đồng bào Thái, đồng bào Mèo, đồng bào Tày, đồng bào Nùng đã có chữ của mình. Như thế là tốt. Nạn mù chữ đã xoá bỏ được nhiều, nhưng còn chậm, cần phải đẩy mạnh việc học văn hoá hơn nữa”[6].
Trong kháng chiến chống Pháp, để chống lại âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch gieo rắc tư tưởng ly khai dân tộc, Người chủ trương thành lập các khu tự trị của đồng bào các dân tộc. Trong Báo cáo trước Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá II) vào ngày 25- 01-1953, Người chỉ rõ: “Chúng ta phải cố gắng đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số và giáo dục đồng bào thiểu số, để chuẩn bị điều kiện cho việc lập dần dần những vùng dân tộc tự trị. Việc này rất quan hệ với kháng chiến. Địch dùng tự trị giả để chia rẽ các dân tộc, để phá hoại sức kháng chiến. Ta phải kịp thời dùng tự trị thật để đoàn kết các dân tộc, để đẩy mạnh kháng chiến” [7]. Mục đích thành lập các khu tự trị nhằm chống âm mưu dùng chiêu bài “tự trị” để chống phá chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời là: “làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lý lấy mọi công việc của mình, để mau chóng phát triển kinh tế và văn hóa của mình, để thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt”[8].
Những năm đầu miền Bắc mới giải phóng, trước bộn bề công việc khôi phục kinh tế miền Bắc sau chiến tranh, đất nước còn bị chia cắt, cách mạng miền Nam đang còn vô cùng khó khăn, nhưng Bác đã giành thời gian trực tiếp lên gặp gỡ, nói chuyện với đồng bào Tây Bắc nhân kỷ niệm 5 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Nói chuyện với đồng bào và cán bộ tại buổi mít tinh ở Thuận Châu (Sơn La) ( 7/5/1959), Người khen ngợi tinh thần đoàn kết kháng chiến cũng như tinh thần đoàn kết sản xuất của tất cả đồng bào, bộ đội, cán bộ trong toàn Khu Tây Bắc. Người chúc: “Người người mạnh khỏe,Đoàn kết chặt chẽ,Hăng hái thi đua,Thành công vui vẻ.” và trao tặng lá cờ thêu dòng chữ ĐOÀN KẾT THI ĐUA THẮNG LỢI. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở đẩy mạnh phát triển văn hoá giáo dục. Bởi theo Người: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế và văn hoá”[9] . Do vậy, Người căn dặn: “Đồng bào Khu tự trị đã từng cùng bộ đội ta đánh thắng trận Điện Biên Phủ, đuổi hết giặc Tây, giải phóng đất nước. Ngày nay đồng bào, bộ đội và cán bộ càng phải cùng nhau đoàn kết phấn đấu để giành lấy một thắng lợi to lớn hơn nữa là tiêu diệt cho hết giặc đói, giặc dốt, làm cho mọi người đều được no ấm, đều biết chữ, làm cho mọi người đều được hưởng hạnh phúc, yên vui"[10].
Khi tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tháng 10-1961, nói chuyện tại Hội nghị tổng kết cuộc vận động hợp tác xã nông nghiệp ở miền núi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh ba vấn đề đối với đồng bào các dân tộc thiểu số:
- Phải tăng cường đoàn kết dân tộc. Ðây là một công tác rất quan trọng, có nội dung mới và rộng hơn. Các dân tộc miền núi đoàn kết chặt chẽ, các dân tộc thiểu số đoàn kết với dân tộc đa số...
- Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi. Cố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa phương, nhưng phải làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương chứ không phải là bao biện làm thay.
- Tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm cho đời sống đồng bào địa phương ngày càng khá hơn, cả về vật chất và tinh thần[11].
Có thể nhận thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ những chủ trương và các nhiệm vụ đối với công tác dào tạo cán bộ các dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, mà mục đích cao nhất là làm “cho cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương”, để chăm lo cho đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số "ngày càng khá hơn".
Vì vây, Người đã đề nghị các cấp, các ngành cần phải bám sát đặc điểm của địa phương, từ đó sẽ đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Trong bài Phát biểu kết thúc cuộc thảo luận về miền núi tại Hội nghị lần thứ 16 ( mở rộng) BCHTU Đảng khóa II, tháng 4-1959, Người nói: “Qua hội nghị và sau khi các địa phương báo cáo, Trung ương có nắm được tình hình hơn trước, nhưng tình hình nắm vẫn chưa kỹ. Ví dụ: Tây Bắc mới điều tra kỹ trong 6 xã. Phải nắm tình hình rộng hơn nữa, sâu hơn nữa để giúp Trung ương, Bộ Chính trị định được chắc chắn hơn nữa những việc nên làm ở miền núi.”[12]
Quán triệt sâu sắc lời chỉ dẫn của Bác, Đảng và Chính phủ đã ưu tiên từng bước cụ thể hóa thành những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục đối với vùng mền núi, biên giới, những vùng khó khăn của đất nước. Với niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bác, các Đảng bộ địa phương, đồng bào các dân tộc thiểu số đã sự đồng lòng, đoàn kết, vượt qua khó khăn, thách thức trong những năm đầu xây dựng CNXH ở miền Bắc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đặc biệt, bước vào công cuộc đổi mới, vùng đất nơi đây dã có những bứt phá, làm đổi thay đời sống cơ cực của đồng bào dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Ý nghĩa đối với công tác đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số trong công cuộc đổi mới hiện nay
Trong hơn 30 năm đổi mới, với những chiến lược và kế hoạch kinh tế-xã hội, Ðảng và Nhà nước đã chỉ đạo thực hiện rất nhiều chương trình để phát triển toàn diện các địa bàn miền núi, miền biển là nơi có nhiều các dân tộc thiểu số. Từ Ðại hội VIII của Ðảng, Chương trình về xóa đói, giảm nghèo đã được triển khai trên toàn quốc, trong đó tập trung rất lớn cho các tỉnh miền núi và ven biển. Ðặc biệt, Chính phủ đã xây dựng và triển khai hai chương trình 133 và 135 với hàng loạt các kế hoạch về định canh, định cư và kinh tế mới, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, khuyến nông-lâm-ngư... để trợ giúp đồng bào các dân tộc ít người ở các vùng đặc biệt khó khăn.
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ thể hiện qua các nghị định, chương trình, dự án, mà còn bằng chiến lược cơ bản lâu dài, như Chiến lược Công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013, nhằm tạo động lực phát triển mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp đó, ngày 14-3-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 402/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ, cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong tình hình mới.
Với sự nỗ lực rất lớn của các cấp, các ngành và cố gắng của đồng bào các dân tộc, các chương trình của Ðảng và Nhà nước đã góp phần nâng cao trình độ cho con em dân tộc nói chung, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói chung đã từng bước đáng ghi nhận. Hệ thống trường dân tộc nội trú và bán trú cũng được đầu tư toàn diện để chăm lo đào tạo con em đồng bào các dân tộc, hệ thống giáo dục và đào tạo cán bộ cho vùng núi, người dân tộc thiểu số phát triển đáp ứng ngày càng cao của yêu cầu các địa bàn là phên giậu của Tổ quốc.
Tuy nhiên, do đặc điểm về địa lý, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cư trú kinh tế-xã hội kém phát triển, tập quán canh tác lạc hậu, không ít nơi còn du canh, du cư, cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa nghèo nàn, dân cư thưa thớt, địa bàn cư trú rộng lớn, giao thông bị chia cắt, cách trở do sông núi hiểm trở lại bị đe dọa nhiều vì thiên tai khắc nghiệt. Bên cạnh những khó khăn về điều kiện tự nhiên thì nơi đồng bào sinh sống lại là cửa ngõ biên giới, cả trên đất liền cũng như các vùng biển đảo có nhiều cửa khẩu quốc gia và quốc tế cần phải cảnh giác trước những âm mưu, toan tính xâm phạm và chống phá đất nước. Và, nguy hại nhất là sự kích động, chia rẽ tình đoàn kết giữa các dân tộc, chống phá Ðảng, Nhà nước. Ðời sống đồng bào các dân tộc còn bị tác động, ảnh hưởng tiêu cực khi xây dựng các nhà máy thủy điện vì phải di chuyển đến nơi ở mới, thiếu đất canh tác, phải thay đổi những điều kiện sống như sản xuất, sinh hoạt, các tệ nạn xã hội do mở cửa thị trường như buôn lậu, vận chuyển ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy...
Tư tưởng và sự quan tâm, chăm lo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số Việt Nam trở thành kim chỉ nam trong công tác, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Điều đó thể hiện rõ trong chủ trương và những quyết sách của Người, Trung ương Ðảng và Chính phủ khi xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế.
Trước hết, cần có chính sách động viên, khích lệ đồng bào dân tộc thiểu số tinh thần tự nỗ lực, tự tôn, tự phấn đấu vươn lên của mỗi dân tộc. Khắc phục tính tự ti, an bài của đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, cần có sự chỉ đạo, giúp đỡ thiết thực, hiệu quả của Đảng, Chính phủ và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, nhất là các dân tộc anh em sinh sống trên cùng một địa bàn. Sự ưu tiên, giúp đỡ của Đảng, Chính phủ, các ban, ngành từ Trung ương đến địa phương góp phần tạo nên nguồn sức mạnh cộng sinh, tổng hợp, khơi thức nội lực của từng dân tộc sẽ thiết thực nhân nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Và đó chính là củng cố và phát huy sức mạnh nội lực của đồng bào, chứ không phải bao biện, làm thay, thủ tiêu tinh thần tự lực cánh sinh của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Thứ hai, là để chăm lo đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương cần thực hiện một cách đa dạng, thiết thực, hiệu quả, linh hoạt hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số phù hợp tới các yếu tố, điều kiện đặc thù về tự nhiên, xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán, trình độ phát triển của từng dân tộc, từng vùng, để có giải pháp và lộ trình phù hợp nhất.
Ba là, cần quan tâm bồi dưỡng đào tạo cán bộ, công chức, kết nạp đảng viên là những người dân tộc thiểu số và kết hợp nhiều lớp cán bộ có các độ tuổi khác nhau để hỗ trợ và giúp nhau trong công việc, kết hợp giữa cán bộ địa phương và cán bộ nơi khác tăng cường cho địa bàn.
Ngày nay, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo đội ngũ dân tộc thiểu số đang được Đảng và Chính phủ tiếp tục phát huy trong điều kiện lịch sử mới. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chính là tạo nên động lực để hiện thực hóa một trong những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang hướng tới “ các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
[1] Hồ Chí Minh : Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, Hà Nội, tr.249
[3] Hồ Chí Minh :Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 458
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 166
[5] Hồ Chí Minh :Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, 2011,Hà Nội, tr 95
[6] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, Hà Nội, tr 163
[7] Hồ Chí Minh :Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, 2011,Hà Nội, tr 34
[8] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia,2011, Hà Nội, tr 453
[9] Theo: Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.221-223
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.206
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t9, tr181-182.
[12] Phát biểu kết thúc cuộc thảo luận về miền núi tại Hội nghị lần thứ 16 ( mở rộng) BCHTU Đảng khóa II, tháng 4-1959. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, NxbCTQG, H, 2011, tr 181
Tác giả: TS. Trần Cao Nguyên
- ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAYNghiên cứu06/05/2025
- TỔ CHỨC PHỐI HỢP, HIỆP ĐỒNG GIỮA CÁC LỰC LƯỢNG TRONG GIẢI PHÓNG TIẾP QUẢN THỦ ĐÔ HÀ NỘI, NÉT ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAMNghiên cứu29/09/2024
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XXNghiên cứu30/08/2024
- ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG (2013 – 2023)Nghiên cứu29/08/2024
- Thực trạng và những vẫn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi Việt Nam trước thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0Nghiên cứu06/04/2024
- Bộ Giáo dục: Học Sư phạm ra, khả năng có việc làm là rất caoNghiên cứu20/03/2024
- SEMINAR KHOA HỌC CỦA KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TRƯỜNG SƯ PHẠM - TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH (Tháng 1- năm 2024)Nghiên cứu24/01/2024
- TRAO ĐỔI VỀ VẤN ĐỀ TỰ HỌC TRONG SINH VIÊN HIỆN NAYNghiên cứu10/01/2024
- Thông tin tuyển sinh ngành Tâm lý học giáo dục 2025Tin tức19/06/2025
- Thông tin tuyển sinh ngành Quản lý giáo dục 2025Tin tức18/06/2025
- Công bố kết quả PISA 2022 của Việt NamTin tức17/06/2025
- Luật Nhà giáo đã được thông quaTin tức17/06/2025
- Một bài tập hồi tưởng trước khi đi ngủ có thể cải thiện trí nhớ ở người cao tuổi, bao gồm cả những người mắc và không mắc bệnh AlzheimerTin tức11/06/2025
- Professional skills development for University lecturers: A case study in the Mekong Delta region of VietnamNghiên cứu10/06/2025
- Thế hệ Gen Z trong môi trường công sở: Phá vỡ định kiến từ góc nhìn tâm lý học tổ chứcTin tức05/06/2025
- Top 10 xu hướng tâm lý học cần chú ý trong năm 2025Tin tức04/06/2025